Phát triển điện hạt nhân là giải pháp chiến lược của Việt Nam
Phát triển điện hạt nhân đang là xu thế tất yếu của thế giới. Hiện nhiều quốc gia đã tái khởi động và phát triển rất mạnh nguồn điện này. Kể cả những nước có ý định "đóng cửa" điện hạt nhân sau sự cố Nhà máy điện Fukushima ở Nhật Bản cũng đã quay trở lại với điện hạt nhân do nhu cầu năng lượng điện lớn cho các trung tâm dữ liệu trong phát triển công nghệ AI, công nghiệp bán dẫn, IoT...
Tại Việt Nam, Chính phủ đã thông qua việc tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận sau 8 năm tạm dừng.
Phát biểu tại Hội nghị về phát triển nguồn nhân lực phục vụ chương trình điện hạt nhân diễn ra vừa qua, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, hiện nay, thủy điện hết dư địa, điện than gây phát thải lớn, các nguồn điện khác như điện gió, mặt trời phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự nhiên, trình độ khoa học, kỹ thuật như: Công nghệ lưu trữ năng lượng điện, truyền tải điện bằng hệ thống lưới điện thông minh...
Điện hạt nhân được xác định là nguồn điện sạch, điện nền do có khả năng đạt đỉnh công suất thiết kế nhanh, rất phù hợp với mục tiêu trung hòa carbon của Việt Nam vào năm 2050.
"Việt Nam có điều kiện phát triển nguồn điện này, 15 năm trước qua khảo sát xác định, có đến 13 - 14 địa điểm có thể phát triển điện hạt nhân. Đặc biệt, Việt Nam có địa hình dài từ Bắc đến Nam nếu phát triển điện hạt nhân quy mô nhỏ thì càng phù hợp.
Ở những nơi phụ tải thấp, nơi có tiềm năng khai thác phát triển năng lượng tái tạo, gió, mặt trời mà có thêm điện hạt nhân module nhỏ thì rất thuận lợi cho khai thác phát huy tiềm năng năng lượng tái tạo cùng với nguồn điện nền, điện sạch...
Điều đó phù hợp nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với mục tiêu trung hòa carbon của Việt Nam vào năm 2050. Hơn nữa Việt Nam là quốc gia đông dân số, dân số trẻ có khả năng tiếp cận công nghệ nhanh"- Bộ trưởng chia sẻ về việc phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, theo tính toán, nhu cầu điện của Việt Nam dự báo hàng năm sẽ tăng trưởng 10 - 13%. Để đáp ứng được mục tiêu GDP từ 6,5 - 7% thì việc phát triển năng lượng hạt nhân được coi là giải pháp chiến lược cho "mục tiêu kép" là bảo đảm an ninh năng lượng cũng như đáp ứng mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Cần bao nhiêu nhân lực cho dự án điện hạt nhân Ninh Thuận?
Theo khuyến cáo của Tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF), Tập đoàn ATOMSTROYEXPORT của Liên bang Nga và một số cơ quan về điện hạt nhân khác, nhu cầu nhân lực cho tổ chức vận hành một nhà máy điện hạt nhân với 02 tổ máy, công suất khoảng 2x1.000 MWe (2.000 MWe) cần khoảng 600 - 1.200 người có trình độ từ trung cấp đến đại học, thuộc các chuyên ngành khác nhau.
Yêu cầu về thời gian đào tạo cũng như kinh nghiệm thực tiễn của một số vị trí quan trọng trong nhà máy điện hạt nhân có thể phải từ 5 - 10 năm.
Trong điều kiện Việt Nam, để đảm bảo tiếp nhận chuyển giao công nghệ, vận hành, duy tu, bảo dưỡng nhà máy an toàn, thì cần khoảng 1.200 người cho các vị trí như: Kiểm soát an toàn và bảo vệ bức xạ, quản lý dự án, quản lý và lãnh đạo nhà máy, vận hành khai thác- điều hành các lò, bảo trì và hỗ trợ kỹ thuật và các dịch vụ khác…
Như vậy, trong trường hợp tái triển khai cả 2 dự án nhà máy điện hạt nhân (Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2, công suất 2x2.000 MW), nhu cần nhân lực tương ứng sẽ là 2.400 người.
Ngoài ra, kinh nghiệm của một số nước có ngành hạt nhân phát triển cho thấy, ngoài số nhân lực phục vụ trực tiếp cho nhà máy điện hạt nhân nêu trên còn cần khoảng 350 người có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành luật và pháp quy hạt nhân, các chuyên gia nghiên cứu và phát triển (chuyên gia R&D), các chuyên gia chu trình nhiên liệu,... phục vụ nghiên cứu, quản lí, vận hành, khai thác, đảm bảo an toàn cho nhà máy điện hạt nhân.
Mặt khác, số lượng nhân lực nêu trên chưa tính đến nhu cầu nhân lực cho quản lý nhà nước, nghiên cứu viên tại các viện nghiên cứu và đội ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục. Nếu tính trung bình mỗi 12 nhân lực lao động trong ngành điện hạt nhân có tương ứng 1 nghiên cứu viên; 20 sinh viên cần có 1 giảng viên, tổng nhu cầu nhân lực cho nhóm này sẽ khoảng 250 người.
PGS. TS Đinh Văn Châu - Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực cho biết, theo thông lệ quốc tế, một nhà máy điện hạt nhân cỡ 1 GW điện cần nguồn nhân lực cho 3 bộ phận: Nhân lực vận hành, cơ bản cần 600 - 650 nhân lực; nhân lực bảo hành, bảo trì; nhân lực phục vụ.
Như vậy, một nhà máy điện hạt nhân về cơ bản sẽ cần khoảng từ 700 - 750 nhân lực, nếu có một tổ máy. Nếu số lượng tổ máy tăng lên mức từ 2 - 3, sẽ cần khoảng 600 - 1.000 nhân lực. Số nhân lực được chia ở các bộ phận khác nhau, bao gồm bộ phận an toàn, pháp chế, vận hành.
Để đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho việc phát triển dự án điện hạt nhân, Bộ Công thương đã đưa ra nhiều ý kiến chỉ đạo cho công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân lực, chuẩn bị rất đa dạng cả nhân lực về kỹ thuật, về nghiên cứu khoa học, về quản lý vận hành… trong hệ sinh thái năng lượng hạt nhân.